I. Sâu hại
1. rệp
+ Các loại rệp gây hại: Tại Tây Nguyên hiện nay phổ biến trên cây Cà phê là các loại rệp:
- Rệp vảy xanh (Coccus viridis)
- Rệp vảy nâu (Saissetia hemisphaerica)
- Rệp sáp (Pseudococcus sp)
+ Đặc điểm gây hại:
Các loại rệp tập trung phá hại mạnh cây Cà phê ở nhiều giai đoạn sinh trưởng và trên nhiều bộ phận. Rệp vảy xanh, vảy nâu gây hại trên các chồi lá non. Rệp sáp hại quả, chích hút chất dinh dưỡng ở cuống quả gây rụng quả. Rệp sáp hại rễ chích hút chất dinh dưỡng ở rễ làm rễ phát triển kém, có vết thương tạo điều kiện cho nấm xâm nhập gây triệu chứng vàng lá, thối rễ.
+ Thời điểm gây hại:
Rệp thường gây hại trong các tháng mùa khô và đầu mùa mưa ( từ tháng 1 đến tháng 6) đặc biệt là thời gian có các giai đoạn nắng mưa xen kẽ nhau.
+ Thuốc phòng trừ:
- Nitox 30EC (Dimethoate 27%+Cypermethrin 3%) sử dụng ở nồng độ 0,2% - 0,25% (20 - 25ml thuốc+10 lít nước) phun ướt đều toàn cây khi rệp mới xuất hiện
- Nibas (Fenobucarb 50%) sử dụng ở nồng độ 0,25% - 0,3%(25 - 30ml thuốc
+ 10 lít nước) phun ướt đều toàn cây khi rệp mới xuất hiện.
- Bini 58 (Dimethoate 40%) sử dụng ở nồng độ 0,2% - 0,3%(20 - 30ml thuốc + 10 lít nước) phun ướt đều toàn cây khi rệp mới xuất hiện.
- Bonus 40EC (Chlorpyrifos Ethyl 40%): Lượng dùng 1 – 1,5lít thuốc/ha; lượng nước thuốc phun: 600 – 1000lít/ha; cách pha: Pha 30 – 40ml thuốc/bình 16lít nước, phun ướt đẫm tán lá khi rệp sáp chớm xuất hiện. Cách 7 – 10 ngày phun lại lần thứ 2 nếu mật độ rệp sáp quá cao.
2. Mọt đục quả (Stepphanoderes hampei)
+ Đặc điểm gây hại:
Mọt phá hại nặng vào giai đoạn quả già và có thể sống trên quả khô. Thành trùng là bọ cánh cứng nhỏ, màu nâu hoặc đen, dài từ 2,5mm - 4mm. Thành trùng đục quả chui vào nhân, đục phôi nhũ tạo thành rãnh nhỏ để đẻ trứng. Sâu non ăn phôi nhũ hạt. Mọt thích sống trong các quả chín, nhất là các quả khô trên cây và rụng dưới đất.
+ Thuốc phòng trừ:
- Nitox 30EC ( Dimethoate 27% + Cypermethrin 3%) sử dụng ở nồng độ 0,2% - 0,25% (20 -25 ml thuốc + 10 lít nước)
- Nibas ( Fenobucarb 50%) sử dụng ở nồng độ 0,25% - 0,3%(25 - 30ml thuốc + 10 lít nước)
- Bini 58 ( Dimethoate 40%) sử dụng ở nồng độ 0,2% - 0,3%(20 - 30ml thuốc + 10 lít nước)
- Bonus 40EC (Chlorpyrifos Ethyl 40%): sử dụng ở nồng độ 0,2 – 0,25% Phun thuốc lên quả ngay từ giai đoạn quả còn xanh, phun 2 lần cách nhau 1 tháng.
3. Mọt đục cành (Xyleborus morstatti)
+ Đặc điểm gây hại:
Thành trùng là bọ cách cứng rất nhỏ gần bằng đầu kim găm. Con cái đen bóng, con đực nâu xám dài trung bình từ 0,9 - 1,6mm. Mọt đục lỗ nhỏ bên dưới các cành tơ hay bên hông các chồi vượt tạo tổ để đẻ trứng làm cành, chồi khô héo và chết.
+ Thời điểm gây hại: Mọt thường xuất hiện vào các tháng mùa khô (tháng 1 đến tháng 6)
+ Thuốc phòng trừ:
Hiện nay chưa có loại thuốc nào đặc trị mọt đục cành Cà phê vì vậy biện pháp tốt nhất là cắt bỏ cành bị mọt để ngăn chặn sự lây lan hoặc là dùng thuốc phun sớm dể phòng ngừa.
- Nitox 30EC ( Dimethoate 27% + Cypermethrin 3%) sử dụng ở nồng độ 0,25% - 0,3% (25 – 30ml thuốc + 10 lít nước)
- Nibas ( Fenobucarb 50%) sử dụng ở nồng độ 0,30% - 0,35%(30 - 35ml thuốc + 10 lít nước)
- Bini 58 ( Dimethoate 40%) sử dụng ở nồng độ 0,25% - 0,35%(25 - 35ml thuốc + 10 lít nước)
- Bonus 40EC (Chlorpyrifos Ethyl 40%): sử dụng ở nồng độ 0,2 – 0,25%
Phun thuốc khi chớm xuất hiện mọt đục cành.
4. Sâu đục thân mình trắng - bore (Xylotrechus quadripes Chevrolat)
+ Đặc điểm gây hại:
Trưởng thành là 1 loại xén tóc nhỏ có màu xanh đen, com cái lớn hơn con đực. Con trưởng thành sau khi vũ hoá nằm trong thân cây 2 - 5 ngày chờ nhiệt độ ấm áp chui ra hoạt động. Con cái sau khi giao phối đẻ trứng vào thời gian 3 - 4 giờ chiều, trứng được đẻ vào đoạn cành hoặc thân có vết nứt, và rải rác mỗi nơi từ 5 - 9 quả, trung bình 1 con cái đẻ từ 85 - 87 trứng. Sâu non nở ra được 1-2 ngày đục vào vỏ quả, sâu tuổi 1, tuổi 2, tuổi 3 đục sâu vào thân cây và cành, đến tuổi 5, tuổi 6 sâu đục 1 khoảng rộng trong phần gỗ của cây và hoá nhộng tại đó. Vòng đời từ trứng - sâu non - trưởng thành - đẻ trứng là 200 - 211 ngày trong vụ đông và 126 - 176 ngày đối với vụ hè. Sâu phá hại nặng trên giống Cà phê chè. Ruộng Cà phê càng dại nắng thì bị càng nặng.
+ Thời điểm gây hại:
Trong năm sâu thường gây hại nặng vào tháng 1-2 và tháng 4-5
+ Thuốc phòng trừ:
- Nitox 30EC ( Dimethoate 27% + Cypermethrin 3%) sử dụng ở nồng độ 0,25% - 0,3% (25 -30ml thuốc + 10 lít nước)
- Nibas ( Fenobucarb 50%) sử dụng ở nồng độ 0,30% - 0,35%(30 - 35ml thuốc + 10 lít nước)
- Bini 58 ( Dimethoate 40%) sử dụng ở nồng độ 0,25% - 0,35%(25 - 35ml thuốc + 10 lít nước)
- Bonus 40EC (Chlorpyrifos Ethyl 40%): sử dụng ở nồng độ 0,2 – 0,25%
5. Sâu đục thân mình đỏ (Zeuze coffea Nietner)
+ Đặc điểm gây hại:
Ngài cái đẻ trứng thành ổ ở chồi non hay nụ của cành Cà phê, mỗi ngài có thể đẻ 400 - 2000 quả trứng. Sau khi đẻ 14 - 16 ngày trứng nở thành sâu non. Sâu non rất nhỏ nhưng hoạt động nhanh nhẹn, đục vào cành tăm hay đốt non, ở tuổi 3 đục vào gốc cành, thường phá hại ở cành cấp 1, cấp 2. Sâu non có 6 tuổi, mỗi tuổi 1 lần lột xác, mỗi lần lột xác là một lần di chuyển chỗ ở, do đó sâu có thể phá hại rất nhiều cành Cà phê, sâu đục cành đùn phân ra ngoài nên rất dễ phát hiện. Sâu non khi đẫy sức thì hoá nhộng trong cây, thời gian hoá nhộng 30 - 50 ngày. Những cành bị sâu đục lá héo rũ, khô đi, quả bị hại héo chín ép nên lép.
+ Thời điểm gây hại:
Trong năm sâu thường gây hại nặng vào tháng 1-2 và tháng 4-5
+ Thuốc phòng trừ:
- Nitox 30EC ( Dimethoate 27% + Cypermethrin 3%) sử dụng ở nồng độ 0,25% - 0,3% (25 – 30ml thuốc + 10ml nước)
- Nibas ( Fenobucarb 50%) sử dụng ở nồng độ 0,30% - 0,35%(30 - 35ml thuốc + 10 lít nước)
- Bini 58 ( Dimethoate 40%) sử dụng ở nồng độ 0,25% - 0,35%(25 - 35ml thuốc + 10 lít nước)
- Bonus 40EC (Chlorpyrifos Ethyl 40%): sử dụng ở nồng độ 0,2 – 0,25%
II. Bệnh hại
1. Bệnh gỉ sắt (Hemileia vastatrix)
+ Đặc điểm gây hại:
Bệnh gây hại trên lá, làm lá rụng, cây kiệt sức, sản lượng kém và có thể chết. Vết bệnh xuất hiện ở mặt dưới lá, bắt đầu là những chấm nhỏ màu vàng nhạt sau đó lớn dần có màu vàng cam và cháy, các vết bệnh có thể liên kết với nhau dẫn đến việc cháy toàn bộ lá và làm lá rụng. Bệnh gây hại mạnh trên Cà phê chè, đối với Cà phê vối tỷ lệ số cây bị bệnh chỉ khoảng 50% và trên từng cây mức độ bị bệnh cũng khác nhau.
+ Thời điểm gây hại:
Bệnh thường xuất hiện vào đầu mùa mưa.
+ Thuốc phòng trừ:
- Abenix 10FL (Albendazole 10%) sử dụng với nồng độ 0,25 - 0,3% ( pha 25 - 30ml thuốc vào bình 10 lít phun ướt đều toàn cây, phun làm 2 lần cách nhau 7 ngày).
- Chevin 5SC (Hexaconazole 5%): Lượng dùng 1 – 2lít thuốc/ha, pha 40 – 60ml thuốc/bình 16lít nước, phun ướt đẫm tán lá cà phê. Nếu bệnh nặng phun lần 2 cách lần đầu 7 ngày.
2. Bệnh khô cành, khô quả
+ Đặc điểm gây hại:
Bệnh gây hại trên quả, cành, lá. Gây hại nặng trên quả Cà phê chè, trên Cà phê vối thường xuất hiện dưới triệu chứng thối đen đầu quả làm rụng non. Triệu chứng đầu tiên của bệnh là những vết nhỏ màu vàng nâu hay nâu trên quả, cành lá. Sau lan rộng ra và có màu nâu sẫm, vết bệnh lõm sâu xuống so với các vùng lân cận. Vết bệnh lan dần khắp vỏ quả, cành lá làm các bộ phận này đen, khô và rụng.
+ Thời điểm gây hại:
Tại Tây Nguyên bệnh phát triển từ đầu mùa mưa, đỉnh cao của bệnh vào
khoảng tháng 10
+ Thuốc phòng trừ:
- Abenix 10FL ( Albendazole 10%) sử dụng với nồng độ 0,25 - 0,3% ( pha 25- 30ml thuốc vào bình 10 lít phun ướt đều toàn cây, phun làm 2 lần cách nhau 7 ngày).
- Chevin 5SC (Hexaconazole 5%): Lượng dùng 1 – 2lít thuốc/ha, pha 40 – 60ml thuốc/bình 16lít nước, phun ướt đẫm tán lá cà phê. Nếu bệnh nặng phun lần 2 cách lần đầu 7 ngày.
3. Bệnh nấm hồng (Corticicum salmonicolor)
+ Đặc điểm gây hại:
Bệnh gây hại trên quả và cành. Đầu tiên trên quả và cành xuất hiện những chấm rất nhỏ màu trắng giống như bụi phấn . Những chấm này phát triển tạo thành một lớp phấn mỏng màu hồng. Nếu xuất hiện ở cành thì lớp phấn này thường nằm ở mặt dưới cành, nếu ở quả thì thường bắt đầu từ cuống quả. Bệnh gây hại nặng trên Cà phê chè, cà phê vối cũng bị rải rác. Bệnh phát triển nhanh trên cây nhưng lây lan từ cây này sang cây khác thì chậm
+ Thời điểm gây hại:
Bệnh thích hợp với điều kiện ẩm độ cao, nhiều ánh sáng. Thường phát sinh từ tháng 6, 7 và cao điểm vào tháng 9.
+ Biện pháp phòng trừ:
Thường xuyên kiểm tra vườn cây đầu mùa mưa, nếu phát hiện bệnh thì cắt, đốn cành bệnh. Ngoài ra có thể dùng các thuốc trừ bệnh sau:
- Jinggangmeisu 5SL, 5WP, 10WP ở nồng độ 0,3% phun từ 2 - 3 lần cách nhau 15 ngày.
- Abenix 10FL ( Albendazole 10%) sử dụng với nồng độ 0,25 - 0,3% ( pha 25- 30ml thuốc vào bình 10 lít phun ướt đều toàn cây, phun làm 2
lần cách nhau 7 ngày).
- Chevin 5SC (Hexaconazole 5%): Lượng dùng 1 – 2lít thuốc/ha, pha 40 – 60ml thuốc/bình 16lít nước, phun ướt đẫm tán lá cà phê. Nếu bệnh nặng
phun lần 2 cách lần đầu 7 ngày.
4. Bệnh lở cổ rễ ( Zhizoctonia solani)
Bệnh gây hại cho cây con trong vườn ươm và cây 1, 2 tuổi. ở cây con trong vườn ươm phần thân tiếp giáp với mặt đất (cổ rễ) bị thối đen và teo lại. Nếu bệnh xuất hiện trong thời kỳ kiến thiết thì cây vàng lá, sinh trưởng chậm, một phần cổ rễ bị khuyết dần.
Bệnh thường xuất hiện ở các vườn ươm có độ ẩm cao, ít thoáng, đất trong bầu dí chặt. Trên đồng ruộng bệnh thường xuất hiện trong mùa mưa, ở những nơi ẩm, đất ít được xới xáo. Bệnh phát triển từ từ và lây lan qua việc làm cỏ , cuốc xới. Nguồn bệnh có thể lây lan từ cây con đã bị bệnh trong vườn ươm.
Đối với cây con trong vườn ươm không được tưới quá ẩm, không được che quá dầy, xới xáo, bóp bầu tạo độ thông thoáng trong bầu, nhổ bỏ các các cây bị bệnh. Có thể sử dụng thuốc Jinggangmeisu 5SL, 5WP, 10WP ở nồng độ 0,3% phun từ 2 - 3 lần cách nhau 15 ngày.
Trên đồng ruộng: Khi trồng phải chọn các cây con khoẻ mạnh, tránh để xảy ra các vết thương ở phần gốc cây khi làm cỏ, cần nhổ và đốt các cây bị bệnh nặng. Đối với các cây bị bệnh nhẹ có thể dùng thuốc Jinggangmeisu 5SL, 5WP, 10WP ở nồng độ 0,3% phun từ 2 - 3 lần cách nhau 15 ngày.
5. Bệnh thối rễ tơ (Tuyến trùng Pratylenchus coffea và nấm Fusarium spp., Rhizoctonia spp)
Bệnh xuất hiện trên vườn Cà phê kinh doanh lẫn kiến thiết cơ bản nhưng chủ yếu là Cà phê kinh doanh. Hệ thống rễ tơ bị thối và chết dần từ phần chóp rễ làm cây không hút được nước và dinh dưỡng héo dần rồi chết. Trên Cà phê kinh doanh do có hệ thống rễ nhiều nên cây có biểu hiện vàng lá và chết chậm hơn sơ với cây còn nhỏ thời kỳ kiến thiết cơ bản.
Đối với các vườn cây chưa bị bệnh cần phải bón phân hoá học đầy đủ, cân đối, tăng cường bón phân hữu cơ và sử dụng các chế phẩm sinh học cải tạo đất, nhất là đối với các vườn có năng xuất cao trong nhiều năm. Bệnh thường lây lan qua việc cuốc xới và nguồn nước. Do đó ở những vùng bị bệnh cần hạn chế việc xới xáo, tưới tràn. Đào đốt các cây bị bệnh nặng.
Đối với các cây chưa bị bệnh hoặc bị bệnh nhẹ có thể dùng thuốc hoá học để phòng ngừa
6. Bệnh thối rễ cọc (Tuyến trùng Pratylenchus coffea và nấm Fusarium spp):
Bệnh xuất hiện chủ yếu trên Cà phê kiến thiết cơ bản trồng lại trên đất khai hoang từ các vườn Cà phê già cỗi hay các vườn Cà phê bị bệnh thối rễ tơ. Rễ cọc của cây bị thối và đứt ngang, bộ rễ tơ gần mặt đất phát triển mạnh. Do đó cây vàng lá rất rõ vào cuối mùa mưa, đầu mùa khô. Cây bị bệnh rất dễ nhổ lên bằng tay, ở những cây bị bệnh nặng rễ tơ cũng bị thối.
Cho đến nay biện pháp hữu hiệu nhất và kinh tế nhất là phòng bệnh bằng cách phải rà rễ cẩn thận khi khai hoang, sau đó phải cải tạo đất bằng các cây lương thực ngắn ngày hay cây đậu đỗ ít nhất trong thời gian 2 - 3 năm trước khi trồng mới lại Cà phê. Đối với các vườn cây đã bị bệnh cần kịp thời đào bỏ các cây bị bệnh và đem đốt để chống lây lan